Một nhà nghiên cứu của trường Đại học Cambridge đã nghiên cứu về vai trò của cá và hải sản trong 1.000 ngày đầu đời – thời gian từ khi thụ thai cho đến sinh nhật lần thứ hai của trẻ.
1000 ngày định hình sức khỏe của tương lai
Megan Walker, nghiên cứu sinh sau đại học ở Anh đã tiến hành nghiên cứu nhằm khám phá sự đóng góp hiện tại của cá và hải sản vào dinh dưỡng trẻ nhỏ và xác định các rào cản chính và giải pháp tiềm năng để cải thiện mức tiêu thụ trong giai đoạn này qua đó, có thể đóng vai trò là bước quan trọng hướng tới cải thiện sức khỏe cộng đồng
Trong giai đoạn này, sự phát triển đáng kể về thần kinh nhận thức và thể chất diễn ra, định hình sức khỏe tương lai của trẻ. Các vi chất dinh dưỡng như sắt, kẽm, canxi, magiê và vitamin D rất quan trọng để hỗ trợ sự phát triển của trẻ nhỏ và giảm thiểu các rủi ro sức khỏe lâu dài.
Theo đó, nhu cầu về vi chất dinh dưỡng tăng cao đối với cha mẹ và người giám hộ trong việc hỗ trợ 1.000 ngày đầu đời của trẻ.
Ngay cả ở Anh, thiếu hụt vi chất dinh dưỡng nghiêm trọng rất hiếm gặp nhưng tình trạng thiếu hụt nhẹ vẫn có thể gây ra những tác động tiêu cực đến sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh. Cũng có mối tương quan tích cực giữa việc thiếu hụt vi chất dinh dưỡng và tình trạng kinh tế xã hội thấp.
Do đó, việc xác định và khuyến khích tiêu thụ các loại thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng dễ tiếp cận là rất quan trọng để đảm bảo sự phát triển sớm khỏe mạnh.
Qua nghiên cứu của mình Megan Walker khuyến cáo việc nhận biết và thông báo cho công chúng về các loại thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng, bền vững là rất quan trọng để khuyến khích thói quen ăn uống lành mạnh và bảo vệ tương lai.
Tại Vương quốc Anh, phụ nữ mang thai hiện đang được bổ sung axit folic và vitamin D và trẻ em từ 6 tháng đến 5 tuổi được khuyên nên bổ sung vitamin A, C và D. Điều này chứng minh rằng Vương quốc Anh hiện không tối ưu để hỗ trợ tăng trưởng trong những giai đoạn này.
Ngoài ra, Megan Walker cho rằng, các chất dinh dưỡng vi lượng có lợi hơn cho con người khi được tiêu thụ trong thực phẩm, thay vì trong viên thuốc bổ sung. Điều này là do các lợi ích sức khỏe xung quanh của việc tiêu thụ thực phẩm, chẳng hạn như thay thế các loại thực phẩm ít lành mạnh hơn, tăng lượng protein hấp thụ và tăng tổng thể nhiều loại chất dinh dưỡng vi lượng.
Các loại nhuyễn thể hai mảnh vỏ đặc biệt giàu vi chất dinh dưỡng, chứa lượng vitamin A cao gấp 23 lần so với thịt bò, thịt lợn hoặc thịt gà.
Các sản phẩm hải sản có thể chứa nồng độ vi chất dinh dưỡng cao hơn so với các nguồn protein khác. Động vật thân mềm hai mảnh vỏ đặc biệt giàu vi chất dinh dưỡng, chứa lượng vitamin A gấp 23 lần so với thịt bò, thịt lợn hoặc thịt gà.
Dấu chân môi trường của hoạt động sản xuất cá và động vật thân mềm cũng có thể thấp hơn so với các hệ thống sản xuất động vật khác.
Mặc dù vậy, vào năm 2019, Khảo sát dinh dưỡng và chế độ ăn uống quốc gia (NDNS) đã xác định mức tiêu thụ trung bình của cá nhiều dầu là 56g ở người lớn trong độ tuổi 19-64. NHS khuyến nghị khoảng 140g cá nhiều dầu mỗi tuần.
Việc nêu bật tiềm năng của hải sản là nguồn dinh dưỡng chất lượng, bền vững có thể rất quan trọng trong việc cải thiện mức tiêu thụ. Nghiên cứu nhằm nâng cao hiểu biết về vai trò của cá và hải sản trong 1.000 ngày đầu đời có thể đóng vai trò là một bước quan trọng hướng tới việc cải thiện sức khỏe cộng đồng.
Megan Walker cho biết nghiên cứu của cô bao gồm hai chương cốt lõi. Chương đầu tiên liên quan đến sự đóng góp hiện tại của cá và hải sản vào dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu tiên của cuộc đời.
Chương thứ hai nhằm xác định các rào cản chính đối với việc cải thiện tiêu thụ cá và hải sản trong 1.000 ngày đầu tiên của cuộc đời và các cơ chế tiềm năng để giải quyết những rào cản này.
Megan Walker sử dụng cơ sở dữ liệu Khảo sát chế độ ăn uống và dinh dưỡng quốc gia (NDNS) , bao gồm các phản hồi khảo sát về thông tin định lượng về lượng tiêu thụ thực phẩm, lượng chất dinh dưỡng hấp thụ và tình trạng dinh dưỡng của dân số nói chung tại Vương quốc Anh.
Nghiên cứu khảo sát lấy mẫu khoảng 1.000 người trên 18 tháng tuổi hàng năm. Dữ liệu khảo sát có sẵn từ năm 2008-2021.
Phân tích liên tục sẽ tiết lộ tác động của thu nhập hộ gia đình, độ tuổi và vị trí địa lý đối với lượng tiêu thụ cá và hải sản của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại Vương quốc Anh.
Nó cũng sẽ cho phép xác định các sản phẩm phổ biến để khám phá loài nào có thể hiệu quả nhất trong việc khuyến khích cải thiện lượng tiêu thụ trong 1.000 ngày đầu đời.
Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở Anh không ăn đủ lượng cá được khuyến nghị
Ở phần hai, Megan Walker tập trung vào một bảng câu hỏi yêu cầu các bà mẹ tương lai và cha mẹ/người giám hộ của trẻ em dưới 2 tuổi mô tả chế độ ăn uống của họ, xác định các rào cản đối với việc cải thiện dinh dưỡng và chia sẻ suy nghĩ của họ về các giải pháp tiềm năng cho những rào cản này.
Thông tin này được kết hợp với việc phân tích các nguồn dữ liệu khác để tiết lộ liệu các rào cản được báo cáo có phải là rào cản đã được chứng minh hay không.
Ví dụ, vấn đề chi phí thường được báo cáo là rào cản đối với việc cải thiện tiêu thụ cá và hải sản.
Vấn đề này đang được điều tra bằng cách thu thập thông tin trên web về chi phí hiện tại của các sản phẩm cá và hải sản tại các siêu thị ở Anh và tìm hiểu cách so sánh giá của các sản phẩm cá và hải sản với các nguồn protein khác.
Điều này có thể được kết hợp với thông tin từ NDNS để hiển thị chi phí của các vi chất dinh dưỡng quan trọng khác nhau, chẳng hạn như axit folic, trong số các nguồn protein ở Anh.
Cuộc điều tra sơ bộ cho thấy phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở Anh không ăn đủ lượng cá được khuyến nghị
Megan Walker nói cô vẫn chưa biết phân tích dữ liệu sẽ tiết lộ điều gì, nhưng cuộc điều tra sơ bộ cho thấy phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở Anh không ăn đủ lượng cá được khuyến nghị.
Tổng lượng cá tiêu thụ trung bình chỉ bằng 40 phần trăm lượng khuyến nghị của NHS ở phụ nữ trong độ tuổi 20-39. Nghiên cứu hiện tại cho thấy việc công khai lợi ích của việc tiêu thụ các sản phẩm cá và hải sản lành mạnh và bền vững có thể đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích tiêu thụ.
Megan Walker cũng quan tâm đến việc xem xét mức độ ảnh hưởng của chi phí và hương vị đến việc tiêu thụ hải sản và khám phá các cơ chế tiềm năng để giải quyết vì điều này sẽ đòi hỏi sự sáng tạo và một cách tiếp cận khác đối với giáo dục nâng cao.
Trần Thái