
Trên toàn cầu, cứ 10 trẻ sơ sinh thì có 1 trẻ sinh non (trước 37 tuần mang thai) và tỷ lệ này đang gia tăng ở nhiều quốc gia.
- Sinh non là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh và thường đi kèm với các vấn đề sức khỏe đáng kể và kéo dài cho những trẻ sống sót – cũng như gây đau khổ về mặt tinh thần cho các bà mẹ.
- Ngày càng có nhiều bằng chứng khoa học chứng minh rằng việc tăng cường tiêu thụ axit docosahexaenoic (DHA), một loại axit béo omega-3, trước và trong khi mang thai có thể giúp giảm nguy cơ sinh non.
- dsm-Firmenich đã giải quyết vấn đề quan trọng này tại Đại hội sản phụ khoa thế giới FIGO (ngày 9 tháng 10), nơi chúng tôi tài trợ cho một hội thảo có tiêu đề “DHA làm giảm nguy cơ sinh non: Khuyến nghị mới của chuyên gia và ứng dụng lâm sàng”. Hội thảo đã đưa ra bằng chứng mới nhất về vai trò của DHA trong thai kỳ cùng với các hướng dẫn thực hành lâm sàng mới và các chiến lược bổ sung DHA trong suốt hành trình làm mẹ.
Tỷ lệ sinh non đang gia tăng không phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội
Trên toàn thế giới, 10% trong số tất cả các ca sinh là sinh non, nhưng tỷ lệ này đang gia tăng ở nhiều quốc gia. Mặc dù sinh non vẫn là một vấn đề ở các nước phát triển, nhưng nó đặc biệt gây gánh nặng ở các nước có thu nhập thấp và trung bình , với số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho thấy tỷ lệ này lên tới 18% ở một số khu vực.
Sinh non đi kèm với những biến chứng đáng kể. Trong số 13,4 triệu ca sinh non ước tính vào năm 2020, có tới một triệu trẻ sơ sinh tử vong do những khó khăn liên quan trực tiếp đến việc sinh non. Ngoài khả năng tử vong cao, trẻ sơ sinh sinh quá sớm còn phải đối mặt với nguy cơ khuyết tật và chậm phát triển.
Tuy nhiên, bất chấp những con số đáng báo động, tỷ lệ sinh non vẫn đang gia tăng. Ví dụ, vào năm 2021, sinh non ảnh hưởng đến khoảng 1 trong số 10 trẻ sơ sinh được sinh ra ở Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, tỷ lệ này đã tăng 4% vào năm 2021 (từ 10,1% vào năm 2020 lên 10,5% vào năm 2021). Nhiều yếu tố góp phần vào nguy cơ sinh non, bao gồm cả việc bổ sung axit docosahexaenoic (DHA) không đủ.
Những phụ nữ có lượng DHA thấp hoặc tình trạng thiếu DHA vào đầu thai kỳ có nguy cơ sinh non cao hơn so với những phụ nữ có lượng DHA đầy đủ. Điều này cho thấy rằng bổ sung DHA trước khi mang thai có thể là một chiến lược hiệu quả để giảm nguy cơ sinh con quá sớm của phụ nữ.
Bổ sung đủ DHA trước và trong khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ sinh non
Người ta đã biết rõ rằng axit béo omega-3, chẳng hạn như DHA, có lợi ích tích cực cho cả sức khỏe của bà mẹ và sự phát triển của thai nhi. Tuy nhiên, việc bổ sung trong thời kỳ mang thai vẫn còn thấp mặc dù các chuyên gia hàng đầu khuyến cáo rằng việc bổ sung DHA có thể làm giảm nguy cơ sinh non.
Lần đầu tiên người ta quan sát thấy cách đây gần 40 năm rằng những nhóm phụ nữ ăn nhiều cá có thời gian mang thai dài hơn. 5 Một nghiên cứu trên 184 quốc gia trên toàn thế giới đã kết luận rằng tỷ lệ sinh non giảm trực tiếp theo mức tăng tiêu thụ axit béo omega-3.
Tương tự như vậy, một đánh giá có hệ thống của Cochrane năm 2018 phân tích dữ liệu từ gần 20.000 phụ nữ trên toàn cầu đã tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng tỷ lệ sinh non (trước 37 tuần) và sinh non sớm (trước 34 tuần) thấp hơn 11% và 42% (tương ứng) ở những phụ nữ được bổ sung axit béo omega-3 so với những người không bổ sung.
Khuyến cáo mới nhất của chuyên gia về việc bổ sung DHA trước và trong khi mang thai là gì?
Đại hội Sản phụ khoa thế giới (FIGO) là đại hội lớn nhất thế giới, quy tụ các chuyên gia từ mọi châu lục để trình bày những đột phá mới nhất và các phát triển khoa học trong lĩnh vực sức khỏe phụ nữ; đồng thời truyền cảm hứng cho thế hệ giải pháp tiếp theo trong lĩnh vực này.
Là một tổ chức có mục đích bảo vệ sức khỏe bà mẹ thông qua sức mạnh của dinh dưỡng, dsm-firmenich đã tài trợ cho một hội thảo trong sự kiện có tiêu đề “DHA làm giảm nguy cơ sinh non: Khuyến nghị của chuyên gia và ứng dụng lâm sàng” .
Trong phiên họp, Giáo sư Tiến sĩ Berthold Koletzko, Tiến sĩ Susan Carlson và Tiến sĩ Irene Cetin đã chia sẻ các hướng dẫn thực hành lâm sàng mới từ một nhóm chuyên gia toàn cầu gồm 24 bác sĩ sản khoa, nhà khoa học dinh dưỡng và bác sĩ nhi khoa hàng đầu có chuyên môn về dinh dưỡng bà mẹ.
Nhóm chuyên gia hoạt động độc lập với ngành và được tài trợ bởi Quỹ Sức khỏe Trẻ em tại Bệnh viện Đại học LMU Munich. Lần đầu tiên, nhóm chuyên gia đưa ra các khuyến nghị về lượng omega-3 dành riêng cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ để giảm nguy cơ sinh non.
Ngoài ra, họ kết luận rằng lượng omega-3 thường được khuyến nghị cho phụ nữ mang thai (~200-250 mg/ngày) là không đủ , đặc biệt là đối với những phụ nữ có lượng hấp thụ thấp vào đầu thai kỳ.
Dưới đây tóm tắt những kết luận chính từ nhóm chuyên gia:
Tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên tiêu thụ ít nhất 250 mg DHA+EPA mỗi ngày (lượng tiêu thụ này có thể đáp ứng chỉ bằng DHA).
Phụ nữ mang thai nên tiêu thụ ít nhất 350-450 mg DHA+EPA mỗi ngày, trong đó ít nhất 100-200 mg đến từ DHA (như trên, tất cả lượng hấp thụ này có thể chỉ đến từ DHA).Phụ nữ mang thai có lượng DHA thấp và/hoặc tình trạng máu thấp khi bắt đầu mang thai nên tiêu thụ 600-1000 mg DHA+EPA (hoặc DHA) mỗi ngày.
– Bảng câu hỏi về tần suất ăn uống (như bảng câu hỏi ở đây ) là một cách hiệu quả để xác định những phụ nữ có lượng DHA thấp.
Việc bổ sung tới 1000 mg DHA+EPA (hoặc DHA) mỗi ngày không gây ra lo ngại về an toàn cho phụ nữ mang thai.
Cải thiện sự lựa chọn cho kết quả sinh nở tốt hơn
Với dầu omega-3 thường có nguồn gốc từ cá nhiều dầu, thường có những rào cản về chế độ ăn uống và hương vị có thể khiến việc hấp thụ DHA đầy đủ trong thai kỳ trở nên khó khăn.
Ví dụ, người ăn chay và thuần chay thường bị loại khỏi các chất bổ sung truyền thống, trong khi mùi tanh của cá thường đi kèm với các sản phẩm omega-3 khiến nhiều người tiêu dùng khó chịu.
Quan trọng nhất là hàm lượng DHA thấp có trong dầu cá tự nhiên khiến việc tuân thủ liều lượng và số lượng khẩu phần bổ sung trở nên khó khăn, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai.
Hoàng Nguyên theo dsm-firmenich