AASF quan trọng cho cả hai giới và mọi lứa tuổi, nhưng đặc biệt quan trọng đối với trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, do vai trò của các chất dinh dưỡng vi lượng và DHA+EPA trong quá trình tăng trưởng và phát triển của thai nhi và trẻ em .
Thực phẩm thủy sản hỗ trợ những người dễ bị tổn thương
Theo các chuyên gia, chế độ ăn uống được hình thành bởi cấu trúc của hệ thống thực phẩm. Việc tiếp cận thực phẩm do các hệ thống này cung cấp có thể khác nhau tùy theo độ tuổi, giới tính, văn hóa, tình trạng kinh tế xã hội và địa lý, cũng như mức độ phụ thuộc của một nhóm dân số nhất định vào thực phẩm có nguồn gốc động vật thủy sản (AASF).
Vì các nhóm tuổi-giới tính khác nhau có mức độ dễ bị tổn thương khác nhau đối với một số kết quả sức khỏe nhất định, nên việc tiêu thụ AASF có lợi ích không cân xứng đối với các nhóm cụ thể.
Chức năng giảm tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng quan trọng hơn đối với trẻ em và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, và chức năng làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do bệnh mãn tính quan trọng hơn đối với người lớn.
Trong nghiên cứu của mình trong nhóm người cao tuổi và trẻ em ở một số quốc gia các nhà nghiên cứu đi đến kết luận, khả năng tăng tiêu thụ AASF có lợi cho dinh dưỡng của phụ nữ cao hơn gần ba lần, tạo ra một con đường tiềm năng cho công bằng dinh dưỡng
Các chuyên gia minh họa vai trò của AASF trong việc cải thiện tương lai sức khỏe con người, tập trung vào việc cung cấp các vi chất dinh dưỡng quan trọng và làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do bệnh mãn tính, đặc trưng của quá trình chuyển đổi dinh dưỡng.
Các phân tích đã chứng minh rằng việc tăng sản xuất sự đa dạng phong phú của AASF (và các chất dinh dưỡng có trong đó) có thể cải thiện chế độ ăn uống của nhiều quốc gia.
Đáng chú ý, phân tích của chuyên gia tập trung vào việc tiêu thụ mô cơ từ AASF và do đó phải được xem là đánh giá thấp khả năng đóng góp tiềm năng vào nguồn cung cấp vi chất dinh dưỡng.
Các chuyên gia cũng thừa nhận rằng, dự báo của họ về sự suy giảm nguồn cung cấp vitamin A toàn cầu có thể không chính xác, do hàm lượng chất dinh dưỡng này cao trong một số bộ phận của cá (như gan) không được đưa vào vì chúng tôi tập trung vào mô cơ.
Tuy nhiên một lần nữa các chuyên gia khẳng định sự đa dạng của các loại thực phẩm thủy sản được nêu bật ở đây chứng minh cho những hạn chế của việc coi chúng là một nhóm đồng nhất.
Đóng góp của Thực phẩm thủy sản về dinh dưỡng
Báo cáo của Ủy ban EAT–Lancet (gồm 37 nhà khoa học đến từ 16 quốc gia)đánh giá thấp tầm quan trọng của các loại thực phẩm thủy sản; các cuộc đối thoại chính sách thực phẩm quan trọng (như Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc: Không còn nạn đói) hoàn toàn bỏ qua các loại thực phẩm thủy sản; và nguồn tài trợ cho ngành thực phẩm thủy sản từ Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Khu vực thiếu sự hỗ trợ có mục tiêu .
Có vẻ như có hai vấn đề chính đang lan rộng trong việc hiểu sai tầm quan trọng của các loại thực phẩm thủy sản. Thứ nhất, người ta thường có quan điểm rất hạn hẹp về sự đa dạng của cá và hải sản, tập trung vào một nhóm cá vây và nhuyễn thể được nuôi thương mại hoặc đánh bắt tự nhiên.
Phân loại này bỏ qua sự đa dạng to lớn của các loài khác, các hình thức sản xuất nuôi trồng và đánh bắt tự nhiên của các nghề cá quy mô nhỏ .
Thứ hai, sự đóng góp về mặt dinh dưỡng của các loại thực phẩm thủy sản theo truyền thống tập trung vào sự đóng góp thấp của nó vào năng lượng toàn cầu (tức là calo) và lượng protein hấp thụ, không xem xét đến sự đóng góp của các loại thực phẩm thủy sản vào dinh dưỡng thông qua các vi chất dinh dưỡng thiết yếu và axit béo có tính khả dụng sinh học cao.
Bộ Nông, Ngư Nghiệp và Bảo Tồn Hoa Kỳ (AFCD) trình bày ở đây cho phép các nghiên cứu trong tương lai vượt ra ngoài quan điểm hạn chế này về dinh dưỡng từ thực phẩm thủy sản. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong bài trình bày hiện tại (ví dụ, thiếu tập trung vào vitamin D do nhu cầu hấp thụ thay đổi và thiếu sự công nhận giá trị dinh dưỡng của cá nhỏ và các bộ phận không phải cá cơ trong dinh dưỡng của con người).
Thiếu vitamin D là một vấn đề sức khỏe lớn ở một số quốc gia và việc tăng lượng cá béo hấp thụ có thể làm giảm tình trạng này.
Điều quan trọng là phải xem xét nơi và cách sản xuất thực phẩm thủy sản, vì tác động về môi trường, xã hội và kinh tế có thể khác nhau rất nhiều trong cả lĩnh vực đánh bắt tự nhiên và nuôi trồng thủy sản ( Phương pháp bổ sung ).
Mặc dù có sự khác biệt về tác động môi trường giữa các lĩnh vực sản xuất thực phẩm có nguồn gốc động vật, nuôi trồng thủy sản và nghề cá đánh bắt tự nhiên gần như luôn tạo ra ít khí thải nhà kính hơn và sử dụng ít đất hơn so với chăn nuôi thịt đỏ, và nhiều AASF cung cấp giá trị thực phẩm tốt hơn gia cầm.
Các chuyên gia cho rằng để đạt được lợi ích sức khỏe con người một cách bền vững và công bằng từ việc mở rộng sản xuất thực phẩm thủy sản sẽ cần các chính sách và công nghệ giúp giảm thiểu tác động đến các hệ sinh thái, ngành công nghiệp và cộng đồng lân cận .
Mời độc giả theo dõi các kỳ trước tại đây: Kỳ 1 ; Kỳ 2; Kỳ 3
Trần Thái theo nature